Nợ công là gì? Nguyên nhân và thực trạng nợ công tại Việt Nam

Trong quá trình quản lý kinh tế, xã hội có những giai đoạn nhà nước cần phải huy động nguồn vốn từ các cá nhân tổ chức cả trong và ngoài nước. Các khoản vay này được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau nhưng nhìn chung vẫn là vì mục tiêu phát triển nền kinh tế nước nhà. Các khoản vay này còn được gọi là nợ công. Vậy nợ công là gì? Thực trạng nợ công tại Việt Nam như thế nào? Nó có tiêu cực không?…Tất cả đều sẽ được chúng tôi giải đáp trong bài viết này.

Nội dung bài viết
ẩn

Nợ công là gì?

Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay.

Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ
kế đến một thời điểm nào đó.

Phân loại nợ công

Nợ công được chia thành 2 loại đó là:

  • Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước).
  • Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).

Nguyên nhân diễn ra nợ công

  • Thứ nhất, áp lực huy động vốn cho đầu tư phát triển kinh tế -xã hội lớn trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế Việt Nam chậm lại.
  • Thứ hai, bội chi Ngân sách Nhà nước gia tăng trong thời gian dài khiến vay nợ trở thành nguồn lực để bù đắp
  • Thứ ba, đầu tư công cao, hiệu quả đầu tư còn thấp trong bối cảnh tiết kiệm của Việt Nam giảm.
  • Thứ tư, việc huy động, phân bổ sử dụng vốn vay của Việt Nam còn dàn trải.

Thực trạng nợ công hiện nay

Theo các con số thống kê do Bộ Tài Chính của Việt Nam nêu ra, nợ công của Việt Nam năm 2016 chiếm 63.7% GDP. Việt Nam tính tới 31/12/2017 là 62,6% GDP. Trong đó:

  • Nợ chính phủ khoảng 51.8% GDP.
  • Nợ được chính phủ bảo lãnh khoảng 10% GDP.
  • Nợ của chính quyền địa phương khoảng 0,8% GDP.
  • Nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 45,2% GDP

Bộ Tài chính từng dự báo nợ công vẫn duy trì ở mức cao trong năm 2018, khoảng 64,7% GDP. World Bank, cùng thời điểm, cho rằng nợ công Việt Nam sẽ vượt mức an toàn năm 2018.

Tính đến cuối năm 2014, tổng nợ công của Việt Nam, bao gồm nợ của Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ của chính quyền địa phương ước tính là 2,35 triệu tỷ đồng (khoảng 110 tỷ USD).  Nếu xét về tỷ lệ tương đối so với GDP (186,2 tỷ USD), thì nợ công theo tính toán của WB tương đương 59%

Xem thêm  Quản lý vốn là gì? Nguyên tắc và những phương pháp phổ biến

Tính đến cuối năm cuối năm 2015, về số tuyệt đối, dư nợ công lên đến 2.608 nghìn tỷ Đồng, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ Đồng). Về số tương đối, cuối năm 2015, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.

Theo Báo cáo về tình hình vay nợ của Chính phủ ước thực hiện năm 2017 và kế hoạch năm 2018 gửi Quốc hội, dư nợ nước ngoài của quốc gia (bao gồm tổng các khoản nợ nước ngoài của Chính phủ, nợ vay nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh, nợ của doanh nghiệp, tổ chức khác vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả theo quy định) đã tăng đáng kể từ năm 2016, chủ yếu do dư nợ tự vay tự trả của các doanh nghiệp tăng mạnh.

Năm 2016 đã tăng 14,5% so với năm 2015, trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ tăng 8,6%; nợ nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh tăng 3%; nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp tăng 26,8%. Điều đó kéo theo nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ là 29,7%, trong khi giới hạn cho phép là 25%.

Đến hết năm 2016, tổng dư nợ nước ngoài của quốc gia là 2.013.681 tỉ đồng, bằng 44,7% GDP. Con số này vẫn trong giới hạn an toàn (dưới 50%) nhưng chỉ số nợ nước ngoài của quốc gia có xu hướng tăng cao hơn năm trước. Nguyên nhân là do quy mô vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp (tự vay, tự trả) tăng nhanh. Tốc độ tăng dư nợ của các khoản vay trung và dài hạn là 30,4%, của các khoản vay ngắn hạn là 20,4% so với năm 2015. Nó kéo theo nghĩa vụ trả nợ tăng gấp đôi (29,7% so với 12,4% của năm 2015) do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng trong năm 2016.

“Nợ công đang tăng nhanh”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng thừa nhận, đồng thời cho hay, chỉ tính riêng quy mô dư nợ nước ngoài của Chính phủ đến cuối 2015 (trong đó có vay ODA, vay ưu đãi chiếm trên 94%) đã tăng 6,5 lần so với năm 2001. Khoản dư nợ này tập trung chủ yếu vào 3 nhà tài trợ chính là Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tăng 20,3 lần, Ngân hàng Thế giới (WB) tăng 11,5 lần, Nhật Bản tăng 6,8 lần…

Xem thêm  Top 20 đồng coin tiềm năng trong năm 2020

Những tác động của nợ công

Tích cực

  • Be thâm hụt ngân sách (Để bù đắp thâm hụt ngân sách, chính phủ các nước phải vay trong và ngoài nước, chứ không được phát hành tiền để tránh nguy cơ xảy ra lạm phát cao.)
  • Đầu tư (Khi có một dự án yêu cầu nhiều về vốn hay công nghệ mà chính phủ không đủ tiềm lực thì vay nước ngoài sẽ giải quyết được phần nào vấn đề vốn.)

Tiêu cực

Ảnh hưởng ngược từ các chính sách khi nợ công quá lớn: Khi nợ công quá lớn, việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách “thắt lưng buộc bụng” để giảm thâm hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các tổ chức tín dụng quốc tế. thậm chí có thể đẩy nền kinh tế vào “khủng hoảng kép”.

Bị hạ bậc tín nhiệm: Khi nợ công liên tục tăng cao, nền kinh tế bị hạ bậc tín nhiệm theo báo cáo của các tổ chức chuyên đi đánh giá tín nhiệm các công ty và quốc gia khác, niềm tin của người dân và giới đầu tư bị lung lay. Nếu chính phủ muốn huy động tiền từ thị trường tài chính sẽ phải chấp nhận chi phí vốn cao hơn và sau đó, rơi vào vòng xoáy: tiếp tục bị tụt bậc tín nhiệm.

Tác động từ nợ chính phủ tới tăng trưởng kinh tế: Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng trong dài hạn một khoản nợ chính phủ lớn làm cho sự tăng trưởng của sản lượng tiềm năng chậm lại vì những lý do:

  • Tăng cường xuất khẩu để trả nợ nước ngoài và do đó khả năng tiêu dùng giảm sút
  • Gây ra hiệu ứng thế chỗ cho vốn tư nhân.
  • Tăng thuế để trả lãi nợ vay chính công dân nước mình => Thuế làm méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội. Ngoài ra, còn có một số quan điểm cho rằng việc chính phủ sử dụng công cụ nợ để điều tiết kinh tế vĩ mô sẽ không có hiệu suất cao vì có hiện tượng crowding out (đầu tư cho chi tiêu của chính phủ tăng lên)
  • Gây ra áp lực lạm phát, tác động tiêu cực tới tốc độ tăng trưởng thực
  • Nợ công không chỉ là gánh nặng của chính phủ mà còn là gánh nặng của mỗi người dân.
Xem thêm  William O’neil là ai? Tìm hiểu cha đẻ của phương pháp đầu tư Canslim

Gánh nặng cho toàn bộ nền kinh tế cùng với rủi ro chênh lệch tỉ giá:

  • Nợ công ở mức cao sẽ kéo theo mức bội chi ngân sách lớn và dần dần sẽ trở thành gánh nặng cho nền kinh tế
  • Trong khi trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam trong những năm gần đây, Chính phủ đang có kế hoạch triển khai nhiều dự án hạ tầng lớn như nhà máy điện nguyên tử, đường sắt cao tốc,… nên tỷ lệ nợ nước ngoài sẽ tăng vọt. Nhìn lại quá trình này, đã có lúc Nhà nước phải đi vay với tỷ giá chỉ 11 nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1 USD, thì ở thời điểm hiện tại tỷ giá quy đổi đã lên đến mức trên dưới 20 nghìn Việt Nam đồng quy đổi bằng 1 USD. Như vậy là khoản chênh lệch tỷ giá này toàn bộ nền kinh tế của chúng ta phải hứng chịu.

Giải pháp xử lý nợ công

Để đảm bảo chỉ số nợ công, nợ Chính phủ trong giới hạn cho phép, không vượt quá 65% GDP, nợ Chính phủ không vượt quá 50% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không vượt quá 25% tổng thu NSNN hàng năm, từng bước giảm dần quy mô nợ công khoảng 60% GDP vào năm 2030 (theo Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV), cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu sau:

  • Một là, đổi mới nợ công trước tiên phải gắn liền với tái cơ cấu NSNN theo hướng lành mạnh hóa và ổn định:
    •  Cơ cấu lại thu NSNN theo hướng thu NSNN ổn định, bền vững.
    •  Cơ cấu lại chi NSNN theo hướng: Giảm và tiết kiệm chi thường xuyên.
  • Hai là, tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ổn định và vững chắc, vì đây chính là nguồn gốc, cơ sở tạo ra nguồn thu NSNN vững bền để trả nợ công.
  • Ba là, điều hành lãi suất, tỷ giá và lạm phát linh hoạt, qua đó giảm thiểu rủi ro lãi suất, tỷ giá và rủi ro tín dụng của nợ công trong thời gian tới.
  • Bốn là, đổi mới căn bản tổ chức quản lý nợ công cả về hành lang pháp lý, cơ chế quản lý và con người thực hiện.

FTX

CẢNH BÁO: Đầu tư vào các sản phẩm tài chính tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà có thể không phù hợp với một số nhà đầu tư. Do đó hãy cân nhắc kỹ lưỡng và làm chủ bản thân trước khi đưa ra bất kỳ quyết định nào cấu thành từ những nội dung tham khảo tại GiaiMaCoin.Com.

Rate this post

Mục lục

Back to top button

You cannot copy content of this page